Trong suốt lịch sử của Trái Đất, rất nhiều loài động vật đã từng gọi hành tinh xanh là nhà. Một số động vật ăn thịt ngày nay có kích thước to lớn hơn con người. Điển hình là những loài gấu, hổ và các loài mèo lớn là những loài săn mồi trên cạn lớn nhất hành tinh.
Một trong những loài động vật săn mồi cổ xưa nhất từng tồn tại trên Trái Đất là Andrewsarchus. Đồng thời chúng cũng là loài động vật có vú ăn thịt trên cạn lớn nhất từng tồn tại.
Nhờ các hóa thạch mà loài động vật để lại, các nhà cổ sinh vật học đã nghiên cứu về chúng và khám phá ra những điều tuyệt vời về loài săn mồi khổng lồ sống cách đây hàng triệu năm này.
Andrewsarchus là một chi động vật có vú sống vào thời kỳ Eocene giữa tại nơi ngày nay là Nội Mông, Trung Quốc. Loài duy nhất được công nhận là A. mongoliensis, chỉ được biết đến từ một hộp sọ phát hiện năm 1923 trong một nghiên cứu của AMNH. Ban đầu nó được xem là một Mesonychia, những nghiên cứu gần đây hơn cho thấy nó là động vật guốc chẵn, và chính xác hơn là một thành viên của nhánh Cetacodontamorpha, liên quan chặt chẽ đến Entelodontidae, hà mã và cá voi.
Andrewsarchus là một chi động vật ăn thịt đã tuyệt chủng sống trong kỷ Eocene. Andrewsarchus mongoliensis là loài duy nhất trong chi này. Con vật này là một loài động vật có vú, và các nghiên cứu gần đây phân loại loài này là một artiodactyl - loài thuộc bộ guốc chẵn. Nó là một thành viên của nhánh Centancodontamorpha, có quan hệ gần gũi với các loài động vật như hà mã, cá heo và cá voi.
Ngày nay, Andrewsarchus chỉ được biết đến nhờ những bằng chứng hóa thạch còn sót lại. Nghiên cứu cho thấy Andrewsarhcus cao bằng một con ngựa và nặng hơn một tấn. Kích thước của nó khiến loài này trở thành một trong những loài ăn thịt lớn nhất từng lang thang trên Trái Đất.
Hiện tại, Andrewsarchus chỉ được biết đến nhờ một hóa thạch, được phát hiện vào mùa xuân năm 1923. Trong một chuyến thám hiểm do nhà cổ sinh vật học Roy Chapman Andrews dẫn đầu, một hộp sọ lớn dài 3 foot đã được thành viên đoàn thám hiểm Kan Chuen Pao tìm thấy.
Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ ở New York đã tài trợ cho cuộc thám hiểm. Tên của Andrewsarchus mongoliensis được đặt theo tên người dẫn đầu đoàn thám hiểm và nơi tìm thấy hóa thạch - Nội Mông.
Khi phát hiện ra nó, các thành viên đoàn thám hiểm tin rằng hộp sọ lớn của Andrewsarchus thuộc về một loài lợn đã tuyệt chủng. Sau khi được nghiên cứu sâu hơn, các nhà cổ sinh vật học biết được rằng hóa thạch này thuộc về một loài mới.
Khi lần đầu tiên được phân loại, Andrewsarchus được xếp vào loại mesonychid và có tên là là "loài mesonychid khổng lồ của Mông Cổ".
Ngày nay, thông qua những nghiên cứu chuyên sau hơn, Andrewsarchus được phân loại là artiodactyl.
Một trong những điều tuyệt vời về Andrewsarchus là nó sống vào thời điểm loài động vật có vú mới bắt đầu đạt được kích cỡ khổng lồ - kỷ nguyên Eocen, từ khoảng 45 đến 35 triệu năm trước. Kích thước khổng lồ của loài động vật ăn thịt này chỉ ra rằng động vật có vú đã trưởng thành nhanh hơn nhiều so với trước đó.
Hộp sọ của Andrewsarchus là hóa thạch duy nhất được biết đến và nó dài khoảng 2,8 ft (86 cm) và rộng 1,8 ft (56 cm). Miệng của chúng chứa đầy những chiếc răng lớn sắc nhọn. Sử dụng các hóa thạch tương tự khác, các chuyên gia có thể ước tính kích thước của loài động vật này. Người ta ước tính Andrewsarchus có kích thước tương đương với một con ngựa vằn hiện đại.
Mặc dù người ta không biết hình dáng cụ thể của loài động vật có vú lớn này trông như thế nào, nhưng hầu hết các mô tả cho thấy chúng trông giống như những con lợn lông xù.
Các cuộc tranh luận đã nổ ra trong cộng đồng cổ sinh vật học về những gì loài động vật này có thể đã ăn. Giả thuyết được nhiều người chấp nhận nhất là đây đích thị là một loài động vật ăn thịt. Các chuyên gia tin rằng Andresarchus vừa là động vật ăn xác thối vừa là động vật ăn thịt. Với kích thước khổng lồ của mình, Andrewsarchus có thể là một kẻ săn mồi đỉnh cao và có khả năng hạ gục hầu hết các loài động vật mà chúng tấn công.
Andrewsarchus mongoliensis có 3 răng cửa, 1 răng nanh, 4 răng hàm nhỏ và 3 răng hàm ở mỗi bên hàm. Các răng cửa được sắp xếp theo hình bán nguyệt, răng hàm thứ hai và thứ ba dài ra và mọc đơn lẻ, răng hàm thứ nhất và thứ hai bị mòn nhiều hơn so với răng trước và răng sau.
Andrewsarchus là một loài động vật có vú sống cách đây khoảng 48 đến 41 triệu năm trong Thời kỳ Eocene giữa. Nó được Kan Chuen Pao phát hiện lần đầu tiên ở Mông Cổ vào năm 1923. Sau đó, nó được Henry Fairfield Osborn mô tả và đặt tên vào năm 1924.
Một trong những sự thật hấp dẫn nhất về Andrewsarchus là nó chỉ được biết đến từ một hộp sọ duy nhất. Hộp sọ này, trông rất giống hộp sọ của sói, và có tất cả các dấu hiệu cần thiết để xác định loài động vật này là động vật có vú.
Một sự thật khác về Andrewsarchus - một sự thật dựa trên thực tế khoa học - là loài động vật ăn thịt này có bộ hàm cực kỳ khỏe. Tuy nhiên, các nhà khoa học hiện không biết lực cắn của nó có thể mạnh đến mức nào. Kể từ khi nó được phát hiện, người ta đã đưa ra giả thuyết rằng loài vật này có thể đã sử dụng bộ hàm khỏe của mình để cắn vỡ mai rùa và các loài động vật có vỏ cứng.