Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), ngày 31/8/2019 Bộ Công Thương Ấn Độ ra thông báo thay đổi chế độ nhập khẩu đối với các sản phẩm hương nhang từ nhập khẩu thông thường sang nhập khẩu hạn chế.
Theo đó, việc nhập khẩu phải xin phép và được Ủy ban liên Bộ Ấn Độ xem xét cấp phép theo từng lô hàng. Ngoài ra, thông báo từ Bộ Công Thương Ấn Độ đưa ra có hiệu lực ngay từ ngày ký nhưng không kèm theo quy định nào về các tiêu chí, điều kiện cấp phép.
Đứng trước thách thức từ thông báo mới của Ấn Độ, chiều 16/9, VCCI đã có cuộc họp giữa doanh nghiệp và các cơ quan Nhà nước liên quan nhằm tìm ra giải pháp ứng phó trước quy định hạn chế nhập khẩu hương nhang của Ấn Độ.
Tại cuộc họp, đại diện các doanh nghiệp đều cho biết, việc Ấn Độ ra thông báo như vậy có thể sẽ làm sụp đổ hầu hết các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng này.
Ông Võ Xuân Hợi, Giám đốc công ty Trường Giang cho biết, doanh nghiệp này sản xuất tập trung cho mùa cao điểm ở Ấn Độ nên nguyên vật liệu đang tồn kho ở ước tính khoảng 15 triệu USD.
Tương tự, ông Phan Thành Luân, Giám đốc Công ty TNHH TM XNK Liêm Thành cho biết, sản phẩm hương nhang Việt Nam xuất khẩu đi Ấn Độ thực chất là loại hương thô không mùi mà nhà nhập khẩu Ấn Độ nhập về, sau đó mới ướp, tẩm các loại hương của Ấn Độ.
Hương nhang xuất đi Ấn Độ có chiều dài 20-23 cm (trong khi các loại hương nhang khác là 38 cm); không mùi (trong khi các loại hương nhang khác đều có mùi). Với các đặc điểm này, máy móc, thành phẩm cũng như nguyên liệu liên quan chỉ có thể sử dụng duy nhất cho mục đích sản xuất, xuất khẩu hương nhang Ấn Độ.
Đại diện công ty Vương Long cũng chia sẻ, việc Ấn Độ thay đổi một cách đột ngột khiến sản xuất kinh doanh bị định trệ, doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản.
Hàng tồn kho số lượng lớn, không xuất khẩu đi nước khác được do không có thị trường xuất khẩu thay thế. Hàng ra cảng Hải Phòng phải quay đầu về. Hàng trên đường sang Ấn Độ không được thông quan dẫn đến tăng chi phí lưu kho, bãi.
Còn theo VCCI, Ấn Độ là thị trường không thể thay thế của các sản phẩm hương nhang liên quan bởi không có nơi nào khác trên thế giới tiêu thụ loại sản phẩm này.
Do đó, thông báo này của phía Ấn Độ ngay lập tức làm đình trệ toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh ngành hương nhang xuất khẩu đi Ấn Độ của Việt Nam với hơn 100 doanh nghiệp và khoảng 2,5 vạn lao động nông thôn cung cấp nguyên liệu tăm tre, keo, mùn cưa, bột than củi… hoặc trực tiếp sản xuất, gia công loại hương nhang này.
Từ góc độ WTO và các cam kết quốc tế của Ấn Độ, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập cho rằng, trước quy định của Bộ Công Thương Ấn Độ, chính các nhà nhập khẩu Ấn Độ lại là người có phản ứng đầu tiên.
Trên thực tế, Ấn Độ đã "nhăm nhe" việc bảo hộ ngành sản xuất hương nhang trong nước từ lâu nay. Tuy nhiên, theo bà Trang, pháp luật của Ấn Độ không có bất cứ văn bản nào đề cập tới sản phẩm hương nhang, trong các quy định của WTO cũng vậy.
Do đó, Ấn Độ phải tuân thủ những quy định bắt buộc của WTO, nếu áp dụng các biện pháp quy định nhập khẩu thì phải sau 21 ngày sau khi ban hành, quy định mới có thể có hiệu lực.
Để ứng phó trước thông báo này từ phía Ấn Độ, ông Trần Thanh Hải, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho rằng các doanh nghiệp cũng cần "thức tỉnh" nhiều điều và phải biết lựa cách sống trong môi trường thương mại quốc tế như thế này.
"Các doanh nghiệp cần tự nâng cao năng lực cạnh tranh, sản xuất chuyên nghiệp hơn, đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hoá thị trường", ông Hải nhấn mạnh.
Theo ông Hải, Bộ Công Thương sẽ có các biện pháp quyết liệt hơn như phối hợp với Bộ Ngoại giao để đưa lên cấp cao hơn nữa, đồng thời tiếp tục đề nghị với Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ, thương vụ Việt Nam bám sát, đôn đốc phía Ấn Độ.
Ông Hải cũng nhận định cần tận dụng những đối tác liên quan có chung lợi ích để cùng nhau lên tiếng.
Trong trường hợp này, đồng minh lớn chính là các nhà nhập khẩu Ấn Độ vì họ cũng đang như "ngồi trên đống lửa," do đó, cần lôi kéo họ vào cuộc, liên kết chặt chẽ với các đối tác để lên tiếng phản đối và đòi hỏi những quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp.