Đơn vị biên phòng với quân số hơn 1 trung đội phải đối mặt với 250 tay súng thánh chiến Mujahideen hoặc hơn nữa, được các cố vấn Mỹ huấn luyện rất tốt ở Pakistan và đánh bại nhóm thánh chiến. Chiến công của những người lính biên phòng này, truyền thông Nga những năm đó không hề đề cập tới.
Năm 1993, tình hình biên giới với Afghanistan vô cùng căng thẳng. Nước Nga đang bị uy hiếp nghiêm trọng bởi những cuộc chiến khủng bố. Từ phía bên kia biên giới , các chiến binh thánh chiến nước ngoài đổ vào Nga, qua Afghanistan những tay súng này mang theo ma túy để buôn lậu.
Nhưng trên tuyến đường lữ hành thánh chiến này cùng với ma túy, lực lượng chiến binh đánh thuê vấp phải một bức tường không thể vượt qua, những người lính canh giữ và bảo vệ biên giới Nga.
Một nhóm binh sĩ đồn biên phòng số 12 Moscow. Ảnh Bộ quốc phòng Nga
Sau khi Liên Xô sụp đổ, trong Cộng hòa Tajikistan bùng phát cuộc nội chiến, để bảo vệ biên giới đất nước này, Nga thành lập Cụm binh lực biên phòng nước Cộng hòa Tajikistan. Binh lực của cụm khi thành lập nhỏ bé đến thảm hại. Để canh giữ và bảo vệ gần 1.500 km biên giới, chỉ có khoảng 3.500 chiến sĩ biên phòng.
Đối với lực lượng thánh chiến, những đồn biên phòng giống như một cái xương mắc trong cổ họng, chúng nhiều lần cố gắng chọc thủng đường biên giới, nhưng các phân đội biên phòng Nga , dù quân số không đáng kể liên tục đẩy lùi thành công các cuộc đột phá của mujahideen (chiến binh thánh chiến Afghanistan).
Lúc đầu, các tay súng Hồi giáo thánh chiến muốn thương lượng với các chiến sĩ biên phòng. Nhóm chiến binh đưa một lượng tiền lớn để các binh sĩ biên phòng nhắm mắt làm ngơ, cho phép các đoàn chiến binh và ma túy đi qua.
Thương lượng bất thành, các binh sĩ biên phòng từ chối tất cả các khoản tiền hối lộ và kiên quyết ngăn chặn những mưu đồ xuyên biên giới. Tình huống đó khiến các tay súng thánh chiến quyết sử dụng vũ lực để mở đường vào Tajikistan.
Suốt mùa xuân và đầu mùa hè năm 1993, các nhóm Hồi giáo cực đoan thánh chiến tiến công thăm dò các đồn biên phòng Panj, Moscow, Ishkashim và Khorog, cố gắng tìm kẽ hở để vượt biên. Mọi nỗ lực chọc thủng biên giới đều thất bại.
Mùa hè năm 1993, lực lượng thánh chiến có được sự giúp đỡ từ nước ngoài, liên tục tấn công với mật độ ngày càng cao, binh lực tấn công cũng tăng lên rõ rệt, từ hàng chục tay súng lên đến hàng trăm.
Các nhóm thánh chiến được trang bị súng máy phòng không hạng nặng, súng phóng lựu chống tăng và súng cối các loại. Tháng 05.1993 một cuộc tấn công lớn được các tay súng thánh chiến thực hiện nhằm vào đồn biên phòng số 9 Moscow, nhưng các chiến sĩ biên phòng đã bẻ gãy âm mưu này.
Sáng sớm ngày 13.07.1993, chiến sĩ canh gác đồn biên phòng số 12 phát hiện một nhóm chiến binh thánh chiến đang bí mật leo lên sườn núi và nổi hiệu báo động. Rõ ràng, các tay súng Mujahideen lên kế hoạch mật tập, bất ngờ tiêu diệt diệt đồn biên phòng nhanh nhất và lặng lẽ nhất có thể, nhưng kế hoạch này thất bại.
Ngay khi bị phát hiện, nhóm thánh chiến tấn công lập tức khai hỏa. Một trận mưa đạn súng cối, súng máy hạng nặng và pháo không giật bắn phá dữ dội đồn biên phòng. Nhóm thánh chiến có vẻ như biết rất rõ địa hình của đồn và cố gắng ngăn chặn các chiến sĩ biên phòng trên tuyến đường đến kho vũ khí, đạn dược.
Ngay từ đầu trận chiến, chỉ huy trưởng đồn biên phòng Mikhail Mayboroda trúng đạn hy sinh.
Trong tình huống giao chiến ác liệt, trung úy Andrei Merzlikin, mới 24 tuổi buộc phải nhận trách nhiệm chỉ huy phân đội. Mặc dù sử dụng hỏa lực bắn phá dữ dội, trong thời gian dài nhóm thánh chiến không thể chiếm được trận địa của xạ thủ súng máy Sergei Borin.
Ba lần, chiến binh Mujahideen phát động các cuộc tấn công, lợi dụng địa hình địa vật ném lựu đạn vào trận địa nhưng cả ba lần Borin nhặt ném trở lại. Cuối cùng anh hy sinh bởi một quả lưu đạn nổ ngay dưới chân.
Đồng đội của Borin tiếp cận trận địa và xả súng vào các tay súng thánh chiến trên khoảng cách gần, khoảng 20 chiến binh bị Vladimir Elizarov - chỉ huy trưởng phân đội chó nghiệp vụ cùng các chiến sĩ biên phòng khác tiêu diệt.
Nhưng cuộc chiến đấu diễn ra không cân sức. Các tay súng thánh chiến điên cuồng bắn chặn đường đến kho đạn và dội đạn cối vào tuyến phòng ngự.
Khu doanh trại và một số tòa nhà khác bốc cháy dữ dội, hỏa lực súng cối, súng máy hạng nặng và pháo không giật bao phủ các trận địa. Andrei Merzlikin, tính toán số lượng đạn còn lại, quyết định rút lui và ra lệnh đột phá vòng vây về phía sau, đến với các đơn vị chủ lực.
Đơn vị biên phòng quyết định rút theo hướng làng Sari-Gore - theo tính toán của trung úy Merzlikin, lực lượng tiếp vận sẽ đến từ hướng đó. Nhưng khi đến gần làng, các chiến sĩ biên phòng vấp phải hỏa lực phục kích và buộc phải di chuyển lên sườn núi.
Các tay súng Hồi giáo thánh chiến, ẩn nấp trên các vách núi và cao điểm liên tục xả đạn vào binh sĩ biên phòng bằng các loại vũ khí. Không còn cách khác, trung úy Merzlikin ra lệnh đột phá vòng vây.
Tiến công trên đầu đội hình, anh hai lần bị chấn thương và bị một vết thương trên đầu. Nhưng may mắn đã mỉm cười, khi toàn bộ phân đội vừa di chuyển vừa đánh trả được 3 km thì gặp đơn vị tiếp viện từ đồn biên phòng số 13.
Lực lượng biên phòng không thể đến tiếp cứu kịp thời do toàn bộ tuyến đường đến đồn biên phòng số 12 đều bị gài mìn. Khi các chiến sĩ công binh cố gắng phá mìn mở đường, họ bị lực lượng thánh chiến bắn dữ dội không thể tiến lên được.
Có được lực lượng tiếp viện, các đơn vị biên phòng quay ngược lại phản công, đánh bại các tay súng thánh chiến trên cao điểm đồn biên phòng số 12, giành lại khu vực đồn và tiền hành truy quét qua biên giới hàng km, tạo lập vành đai an ninh.
Trong trận chiến khốc liệt này, theo nhiều nguồn tin khác nhau, các tay súng thánh chiến để lại khoảng từ 40 đến 70 thi thể không mang đi được. 25 binh sĩ biên phòng tử trận, trong đó đồn trưởng Mikhail Mayboroda.
Một thời gian rất lâu sau đó, 6 quân nhân biên phòng được trao cho danh hiệu Anh hùng Liên bang Nga, trong đó có 4 người đã hy sinh, được trao trong truy điệu.