Có lẽ chưa bao giờ một Chính phủ phải đối mặt với nhiều thách thức chưa từng có cùng một lúc như vừa rồi. Tất cả thời gian chuẩn bị cho hoàn thiện bộ máy Chính phủ, bầu cử Quốc hội, cuộc chiến chống dịch, chuyển chiến lược từ phòng ngự sang tấn công, đi kèm với mục tiêu phát triển kinh tế, chỉ vỏn vẹn 20 ngày…
Trao đổi với Trí Thức Trẻ, GS.TS Nguyễn Đức Khương, Phó Giám đốc phụ trách nghiên cứu, IPAG Business School (Paris) đánh giá: "Với tác phong của Thủ tướng Phạm Minh Chính là tinh thần hành động, thì khẩu hiệu chuyển từ phòng ngự sang tấn công đã được cụ thể hóa ngay trong 100 ngày đầu của Chính phủ".
Ông có nhận xét gì về bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ở thời điểm ông Phạm Minh Chính nhậm chức cùng với Chính phủ?
Thời điểm đầu tháng 4, khi Thủ tướng Phạm Minh Chính mới nhậm chức, bối cảnh trong và ngoài nước vẫn còn rất phức tạp, những kỳ vọng về "bình thường mới" chưa thành hiện thực.
Thời điểm đó, nước ta vừa mới kết thúc làn sóng dịch thứ 3. Kinh tế toàn cầu lúc này vẫn còn đang trong giai đoạn khủng hoảng. Tình trạng gián đoạn các dây chuyền vận tải, logistics, khó khăn di chuyển giữa các quốc gia tiếp tục gây ra các tác động mạnh đến nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, đặc biệt là khi xuất nhập khẩu được coi là một trong những đòn bẩy tăng trưởng quan trọng trong năm vừa rồi.
Mặt khác, chúng ta mới chỉ tạm kiểm soát được dịch, còn nguy cơ bùng dịch vẫn hiện hữu, kể cả khi ta vẫn thực hiện các giải pháp hạn chế di chuyển với bên ngoài, nhất là với các dòng khách du lịch, doanh nhân và chuyên gia quốc tế. Một điểm quan trọng khác là vào thời điểm đó, Việt Nam chỉ mới nhận được lô vắc xin đầu tiên từ COVAX (Cơ chế tiếp cận toàn cầu với vắc xin ngừa COVID-19) và bắt đầu chiến dịch tiêm vắc xin.
Công nhân sản xuất khẩu trang tại nhà máy. Ảnh: Việt Hùng
Tóm lại, nhìn nhận một cách tổng quan về cả y tế và kinh tế, thời điểm bắt đầu của Chính phủ đã rơi đúng vào giai đoạn chuyển giao giữa hai đợt bùng phát dịch Covid-19, với bối cảnh không dễ dàng về nhiều mặt: tăng trưởng của quý 1 bị ảnh hưởng bởi đợt bùng phát dịch Covid-19 thứ 3, kinh tế vẫn ở trong tình trạng rất "dễ vỡ" với nguy cơ phải tiếp tục phong tỏa, cách ly nếu dịch quay trở lại, vắc xin còn ít…
Trong bối cảnh như vậy, ông đánh giá như thế nào về kết quả sau 100 ngày đầu tiên của Thủ tướng và Chính phủ?
Tăng trưởng quý 2 của Việt Nam đạt 6,6% - một trong những con số tăng trưởng rất cao so với các nước trong khu vực và quốc tế. Con số này cũng chỉ kém 0,1 điểm phần trăm so với năm 2018 và 2019. Mặc dù hơi thấp so với kỳ vọng ban đầu của tôi, nhưng kỳ vọng đó được đặt ra khi chưa có làn sóng Covid thứ 4. Còn trên thực tế, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng đó, bất chấp đợt bùng phát thứ 4 của dịch bệnh xảy ra đúng 20 ngày sau khi Thủ tướng nhậm chức.
Chỉ trong vòng chưa đầy 3 tuần, tất cả những việc lớn được thực hiện đồng thời: kiện toàn bộ máy mới của Chính phủ, tạo ra những gắn kết giữa Chính phủ và địa phương (trong điều kiện chính địa phương cũng có bộ máy chính quyền mới và lãnh đạo mới), sắp xếp và trao đổi với các bộ ngành chuyên môn để có những giải pháp ứng phó kịp thời với sự thay đổi của tình hình thế giới và tình hình trong nước…
Và đúng ngày 27/4, đợt dịch thứ 4 bùng phát, với mức độ và tốc độ lây lan chưa từng có. Như vậy, có thể thấy, tới 80% khoảng thời gian của 100 ngày đầu tiên này là dành ưu tiên cho công tác chống dịch.
Dịch bệnh lần này có tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng trong cộng đồng hơn hẳn những lần trước, khi bùng phát ở những địa phương là cứ điểm sản xuất như Bắc Giang, Bắc Ninh và bây giờ là Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh. Kể cả với những kinh nghiệm đã được tích lũy trong năm 2020 và quý 1 năm 2021, việc ứng phó với dịch lần này cũng không dễ dàng.
Nhìn nhận một cách khách quan, với hoàn cảnh của Việt Nam, thì kết quả tăng trưởng kinh tế 6,6% là rất đáng khích lệ. So với cùng kỳ năm trước, chúng ta đã đi được một bước dài. Xuất nhập khẩu tăng trưởng ổn định (tổng kim ngạch đạt 316,73 tỉ USD, tăng 32,2%, và đã bằng 58% tổng kim ngạch của năm 2020), công nghiệp chế biến (một trong những động lực chủ đạo để hiện đại hoá nền kinh tế) có mức tăng trưởng cao (11,42%), thu hút đầu tư nước ngoài tuy có giảm nhưng trong bối cảnh khó khăn trong đi lại và xúc tiến đầu tư như hiện tại thì thành quả đó cũng đủ để khiến chúng ta yên tâm.
Tiếp theo nữa, thị trường chứng khoán trong giai đoạn 6 tháng vừa qua tương đối ổn định và có sự phát triển tốt. Nếu đầu năm chúng ta lo lắng rằng dòng tiền hỗ trợ của nhà nước không đi vào sản xuất mà sẽ tạo ra bong bóng trong thị trường chứng khoán, thì đến thời điểm hiện tại thì bong bóng vẫn chưa xảy ra. Thị trường có tính thanh khoản tốt, biến động thị trường vẫn đang ở mức có thể kiểm soát được, thể hiện tâm lý ổn định và niềm tin của nhà đầu tư vào sự phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Công nhân Samsung tiếp tục làm việc trong nhà máy và chuỗi cung ứng vẫn thông suốt. Ảnh: Samsung - Thủ tướng Phạm Minh Chính đến thăm và tìm hiểu kinh nghiệm ở Vinamilk khi kiểm tra chống dịch ở TP.HCM. Ảnh: Việt Đức
Điều gì khiến mức tăng trưởng quý 2 của Việt Nam cao gấp nhiều lần cùng kỳ, trong khi quý 2 năm trước, dịch bệnh thậm chí chưa nghiêm trọng như hiện tại?
Theo quan sát của tôi thì có hai yếu tố giải thích tại sao đang phải chống dịch ở cường độ cao mà chúng ta vẫn duy trì được các hoạt động kinh tế xã hội.
Thứ nhất, sau khi xác định việc thực hiện mục tiêu kép "vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế", Việt Nam đã tiếp thu được rất nhiều kinh nghiệm quý trong công tác phòng chống Covid-19. Các chủ thể kinh tế đã tìm được cách làm việc trong môi trường còn dịch bệnh một cách tích cực hơn, với tinh thần thích ứng, tuân thủ đầy đủ các quy định trong phòng chống dịch nhưng vẫn tập trung phát triển kinh tế.
Ý thứ nhất này rất quan trọng vì ngày một nhiều minh chứng khoa học cho thấy dù vắc xin là yếu tố quyết định đưa cuộc sống chúng ta nhanh trở lại bình thường với rủi ro rất thấp thì nó cũng không phải "viên đạn bạc" có thể giải quyết toàn bộ và triệt để bài toán của Covid-19. Niềm tin về ngưỡng được coi là miễn dịch cộng đồng (khi khoảng 60 – 70% dân số được tiêm phòng) không còn là bất biến do xuất hiện các biến chủng mới. Biến chủng Delta mới chính là một ví dụ, với tốc độ lây nhiễm cao, ngay cả trong các cộng đồng đã tiêm chủng được hơn 65% như Israel, Chile, và Vương Quốc Anh, mỗi nước sử dụng chủ yếu một loại vắc xin khác nhau (Pfizer, Sinovac, và AstraZeneca).
Thứ hai, cho đến cuối quý 2, Việt Nam đã không phải áp dụng biện pháp phong tỏa với quy mô lớn trên phạm vi cả tỉnh hay cả nước. Nơi nào không có dịch, hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn được thúc đẩy và duy trì tăng trưởng bình thường. Ngay cả người dân cũng tự tin hơn vì đã hiểu phần nào về Covid-19 và có kinh nghiệm ứng phó.
Các điểm cần chú ý xem xét để cân đối là cấu trúc các mặt hàng nhập khẩu, mức thâm hụt cán cân thương mại trong tháng 6 đầu năm (1,47 tỷ USD), năng lực thu hút đầu tư, và nhất là phát triển thị trường cho khu vực sản xuất. Trong tháng 6 thì chỉ số quản lý thu mua (PMI) đã giảm 9 điểm so với một tháng trước đó, từ 53,1 xuống còn 44.1, đánh dấu suy giảm của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Với các số liệu về tăng trưởng quý 2 như vậy, thì những thách thức mà Chính phủ có thể gặp trong quý 3, gần như tương đương với 100 ngày tiếp theo sẽ là gì?
Theo tôi, sẽ có ba thách thức và cũng là con đường để Việt Nam có thể quay trở lại với cuộc sống an toàn và thông minh trong môi trường dịch bệnh.
Thứ nhất là có được vắc xin và tổ chức tiêm chủng vắc xin hiệu quả. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng, tất cả các vắc xin được công nhận bởi Tổ chức Y tế thế giới đều giải quyết được một việc rất lớn là giúp những người nhiễm Covid-19 sẽ không bị nặng, sẽ không phải vào bệnh viện và hầu như không có nguy cơ tử vong.
Trong quý 3, chắc chắn Việt Nam chưa thể hoàn thành chiến dịch tiêm chủng. Do vậy, những người chưa được tiêm vẫn phải có kế hoạch sống bình thường và an toàn với dịch bệnh. Chính phủ cần chuẩn bị tâm lý và một mô hình sống và làm việc chung với dịch cho người dân, doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài khối nhà nước.
Thứ hai là việc phải tìm ra độ mở cửa phù hợp, khi thế giới đang tiến dần vào câu chuyện phục hồi kinh tế, nhất là đối với các nước đã tiêm chủng cho người dân với tỷ lệ lớn. Phải như vậy mới có thể gắn kết trở lại hoạt động của Việt Nam với kinh tế thế giới. Nếu việc hạn chế đi lại giữa Việt Nam và thế giới tiếp tục kéo dài, rất nhiều lực lượng chuyên gia, doanh nghiệp và nhà đầu tư không thể đến Việt Nam để quan sát thực địa, trao đổi trực tiếp để quyết định đưa dòng tiền đầu tư hay chuỗi sản xuất về Việt Nam được.
Điểm đáng chú ý là hầu như tất cả những đối tượng kể trên gần như đã được tiêm chủng đầy đủ vì họ thuộc nhóm được ưu tiên ở nhiều quốc gia khác nhau, sau nhóm dễ bị tổn thương. Do vậy, việc tạo điều kiện cho họ đi lại với Việt Nam một cách dễ dàng hơn sẽ giúp Việt Nam sớm khôi phục trở lại hoạt động kinh tế, thương mại và đầu tư.
Thách thức thứ ba, cũng là thách thức lớn mà chúng ta chưa mấy khi để ý trong giai đoạn chống dịch là việc Chính phủ phải định hình mô hình mới ngay cho trung và dài hạn với các kịch bản khác nhau của ngắn hạn.
Ví dụ kịch bản ngắn hạn là đến hết năm 2021 sẽ tiêm được trên 70% dân số sẽ khác với kịch bản ngắn hạn là chỉ tiêm được 30-40% dân số. Kết quả của chương trình tiêm chủng sẽ quyết định chiến lược và định hướng chính sách trong một vài năm tới.
Trên hết, phương châm lớn, mà một số nước tiên phong đã bắt đầu tính đến là phải có mô hình thích ứng cao và sống chung với Covid-19 vì rất khó có khả năng để dập dịch hoàn toàn trước mắt và trong ngắn hạn. Ở điểm đến, xác suất lớn là Covid-19 sẽ như một bệnh có thể trở lại đều đặn theo mùa.
Với các kết quả hiện tại, mục tiêu tăng trưởng 6,5% đến cuối năm có phải là thách thức lớn với chúng ta hay không?
Theo tôi, tăng trưởng 6,5% không phải là thách thức lớn đối với Việt Nam đâu. Nền kinh tế nước ta bắt đầu có những thích ứng tốt với môi trường số hoá, thương mại số, và có sức bật khá nhanh. Các kết quả tích cực từ nhiệm kỳ trước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chính sách thúc đẩy "Make in Vietnam"…cũng đã đặt được một nền tảng quan trọng cho giai đoạn tới.
Nhìn vào nỗ lực của Chính phủ trong việc tìm kiếm nguồn vắc xin, huy động nguồn lực toàn dân tham gia vào công tác phòng chống dịch bệnh và việc nghiên cứu mở cửa thông minh, lựa chọn, phân loại đối tượng để cho phép nhập cảnh vào Việt Nam…thì chúng ta có thể tin tưởng rằng mục tiêu 6,5% hoàn toàn có thể đạt được.
Ngay trong khi chúng ta đang chống dịch với nỗ lực cao nhất, các tổ chức kinh tế tài chính uy tín thế giới như Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, Ngân hàng thế giới WB và Ngân hàng phát triển châu Á ADB vẫn đang dự báo Việt Nam là một trong những cực tăng trưởng quan trọng nhất của khu vực Đông Nam Á và châu Á -Thái Bình Dương, với mức tăng trưởng xung quanh 7%.
Có một số tổ chức cho rằng Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 6,9% nếu kiểm soát dịch bệnh không tốt, nhưng 6,9% vẫn là mức rất cao. Mà không phải họ không biết Việt Nam đang phải chống dịch rất căng thẳng. Họ nhìn vào những nỗ lực của Chính phủ, nhìn vào các dòng vắc xin dự kiến sẽ về Việt Nam trong khoảng tháng 7 – 12, thì họ vẫn thấy Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được tỷ lệ tiêm chủng dân số cao trong năm nay. Cùng với kinh nghiệm quản lý kinh tế của Việt Nam nhất là trong quý 2 vừa rồi, có thể thấy rằng các hoạt động kinh tế vẫn được duy trì và phát triển tốt.
Ông có kỳ vọng gì về những thay đổi sắp tới của nền kinh tế?
Tôi có hai kỳ vọng.
Thứ nhất, hiện nay tất cả các quốc gia đều khó khăn. Ngay cả các nước đã có tỷ lệ miễn nhiễm cao rồi cũng vẫn gặp khó khăn trong việc đưa người dân trở lại quỹ đạo sống và phát triển kinh tế như bình thường. Bởi lẽ, Covid 19 không chỉ gây ra vấn đề về y tế mà còn làm nảy sinh các vấn đề xã hội như tâm lý của những người bị bệnh, tâm lý của người dân sau khi trải qua nhiều đợt đóng, mở cửa, cách ly và không cách ly, có thể gọi là tác động Covid-19 "mãn tính".
Cái hơn nhau ở đây là quốc gia nào có thể hồi phục nhanh hơn, tìm thấy con đường để đi nhanh hơn, hay những "điểm nghẽn" để giải quyết. Hiện nay, chưa có quốc gia nào có thời gian để làm việc này. Việt Nam, bên cạnh việc chống dịch, nếu chúng ta bắt đầu tiến hành tìm ra điểm nghẽn, những yếu tố nội lực để phát triển kinh tế, thì chúng ta có thể bứt phá.
Ví dụ như, thay vì chỉ tập trung tìm kiếm vắc xin, Việt Nam có thể đầu tư, hợp tác nghiên cứu ra phương thuốc đặc trị cho Covid-19 trong thời gian tới, đồng thời đưa ra những quy trình chống dịch, quy tắc làm việc an toàn trong giai đoạn dịch vẫn tiếp diễn. Những điều đó, rõ ràng sẽ giúp chúng ta quay lại cuộc sống bình thường sớm hơn, để có những sự bứt phá.
Năm trước, người dân Bắc Giang thu hoạch vải thiều nhưng không biết bán cho ai và chờ giải cứu. Còn năm nay, với sự hỗ trợ của nhiều kênh bán khác nhau, đặc biệt là thương mại điện tử, vải thiếu đã được bán chứ "không cần cứu". Ảnh: Nam Nguyễn
Tiếp đến, theo tôi, Việt Nam nên bắt đầu suy nghĩ về những chiến lược dài và đồng bộ. Bối cảnh thế giới chắc chắn không phải lúc nào cũng yên bình và luôn luôn thay đổi. Các quan hệ về địa kinh tế và địa chiến lược cũng thường xuyên thay đổi, nhất là trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nơi có rất nhiều điểm nóng về địa chính trị.
Để có được môi trường vĩ mô ổn định, không có những rủi ro lớn, Chính phủ cần định vị chiến lược dài hạn cho Việt Nam, trong đó có quan hệ hợp tác chiến lược về phát triển khoa học công nghệ. Đây là yếu tố then chốt để đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển với tầm nhìn 2045.
Nếu thiếu khoa học công nghệ, thiếu nguồn lực con người hay thiếu tư duy đổi mới sáng tạo, chúng ta không thể đạt được khát vọng lớn. Việt Nam cần có hợp tác trọng điểm với những quốc gia có nền khoa học công nghệ tương thích về trình độ và nhu cầu phát triển của Việt Nam, mà chúng ta có thể hợp tác sâu rộng, liên tục, dài hạn, để từ đó có chuyển giao công nghệ.
Việc chuyển giao công nghệ chỉ xảy ra khi mà chúng ta làm việc, nghiên cứu, phát triển với họ trong nhiều lĩnh vực. Có nhiều ý kiến cho rằng chúng ta có thể bỏ ra một số tiền lớn để mua công nghệ, nhưng liệu chúng ta đã đủ tiền chưa? Chẳng có quốc gia nào chuyển giao công nghệ mới nhất của họ cả.
Bên cạnh hợp tác chiến lược về công nghệ, chúng ta cũng cần định vị được nhóm quốc gia có thể phát triển trở thành thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài các thị trường lớn đã dần thành truyền thống thông qua các hiệp định thương mại mới và cũ (EU-VN FTA, CP-TPP, RCEP,…), còn rất nhiều thị trường mới, thị trường tiềm năng, như châu Phi. Đại đa số các quốc gia châu Phí có trình độ phát triển khoa học công nghệ và sản xuất kinh doanh, độ mở kinh tế tài chính thấp hơn so với chúng ta. Nếu các ngành công nghiệp của Việt Nam đang phát triển ở mức cao hơn họ, họ cần loại công nghệ và kiểu phát triển của ta, ở mức kinh phí có thể chấp nhận được, thì ta sẽ có vị trí đứng ở các thị trường đó.
Ví dụ như, với châu Phi, chúng ta thì có thể phát triển về viễn thông, công nghệ số hoá trong tài chính ngân hàng, công nghiệp sản xuất nông nghiệp và chế biến lương thực, thực phẩm, may mặc… Đó sẽ là thị trường vô cùng rộng mở với chúng ta.
Nếu được chọn một từ, hoặc một cụm từ phù hợp để mô tả về 100 ngày đầu tiên của Chính phủ, ông sẽ chọn ra sao?
Có lẽ, hình ảnh nổi lên rõ ràng nhất về phong cách điều hành của Chính phủ trong 100 ngày đầu tiên là một Chính phủ hành động, nói đi đôi với làm, từ lãnh đạo cao nhất xuống đến lãnh đạo ở các cấp khác nhau. Chính phủ đưa ra các quyết sách rất nhanh, huy động được trí tuệ tập thể và sự tham gia của rất nhiều lực lượng khác nhau.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam. Ảnh: VGP - Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm công ty Nissei Electric Việt Nam. Ảnh: Việt Đức
Điều này thể hiện rõ trong nhiều chiến dịch gần đây của Chính phủ. Từ tiếp cận với các nguồn vắc xin, cho đến việc đưa nông sản Việt từ các vùng dịch ra thị trường quốc tế…
Đó không phải là nỗ lực chỉ nói, chỉ trên giấy tờ, mà thể hiện rằng: Chính phủ nói, Chính phủ làm và hỗ trợ để làm bằng được. Tìm kiếm thị trường cho nông sản, không còn là câu chuyện "giải cứu", mà ngay trong giai đoạn khó khăn nhất, Chính phủ đã tìm ra cách tốt nhất để đưa được sản phẩm của mình đến người tiêu dùng, và đặc biệt là ra quốc tế.
Rõ ràng, tất cả đòi hỏi quyết tâm cao và một năng lực hành động rất cao của Chính phủ.
Cảm ơn ông đã dành thời gian chia sẻ!